Nghe hát dân ca Sán Chí, uống “Nùng Tửu”
Đến với Lục Ngạn, có lẽ sẽ là thiếu sót nếu như không nghe hát dân ca soong hao của đồng bào dân tộc Sán Chí và thưởng thức rượu Kiên Thành.
Ông Lâm Minh Sập, người dân tộc Sán Chí, hiện là Chủ tịch Hội Người cao tuổi của xã Kiên Lao giới thiệu với chúng tôi rằng: Dân tộc Sán Chí sống thành từng bản ở xã Kiên Lao, chiếm tới 70% dân số trong 7 dân tộc anh em cùng sinh sống ở xã. Trong quá trình lao động, họ đã sáng tạo những ca khúc dân ca trữ tình, đằm thắm. Loại hình dân ca này rất phong phú, có sức sống từ lâu đời với các lối hát, như hát ru, hát ví, ngâm thơ, đối đáp nam nữ…thể hiện tình cảm giữa con người với con người, con người với thiên nhiên.
Người Sán Chí yêu dân ca như yêu núi rừng của mình
Sẽ còn gì thú vị hơn được du ngoạn ngắm cảnh hồ Khuôn Thần và nghe hát dân ca Sán Chí. Diện tích hồ Khuôn Thần rộng 240ha. Nơi đây được thiên nhiên ưu ái ban cho vẻ đẹp thanh bình. Nước trong, không khí thoáng đãng, trong lành mát mẻ, xung quanh là núi với những rừng thông xanh tốt quanh năm. Lòng hồ có 5 đảo nhỏ được trồng thông xanh có tuổi từ 15-20 năm. Bao bọc quanh Hồ là rừng Khuôn Thần có diện tích khoảng 800 ha. Đây thực sự là nơi du lịch sinh thái tuyệt vời, nhất là vào mùa hè.
Rời hồ Khuôn Thần, chúng tôi cùng lên rừng thông. Ông Ninh Đại Hải – người dân tộc Sán Chí đã nhiều năm say sưa nghiên cứu dân ca của dân tộc mình và sưu tầm, lưu giữ nhiều lời ca, làn điệu truyền thống cho chúng tôi biết nhiều điều thú vị về dân ca Sán Chí. Theo ông Hải thì hát dân ca Sán Chí không có nhạc đệm và với nhiều hình thức, như: hát ban ngày (Chục Côộ) - hát giao duyên hay hát ghẹo, hát ban đêm (Cnắng Côộ), hát đám cưới (Cháu Côộ) và hát đổi danh (Zoóng Hôồ). Trong đó, hát “Cnắng Côộ” là loại hình phong phú nhất của dân ca Sán Chí, nên khi nói đến dân ca Sán Chí đồng bào thường gọi theo tên chung là “Cnắng Côộ”.
Vãn cảnh, nghe hát khiến tâm hồn ai nấy đều thư thái. Các bác, các anh chị trong CLB hát dân ca Sán Chí còn níu kéo bằng được chúng tôi ở lại dùng bữa cơm trưa với tấm chân tình khó cưỡng. Ai nấy cũng bảo: Chỉ có cơm quê với rau vườn, gà nuôi thả thôi mà. Thực sự bây giờ chúng tôi càng hiểu, tấm lòng người dân miền núi thật thà, chất phác như thế nào. Nhấp chén rượu do đồng bào tự cất bằng gạo quê, ăn miếng rau vườn không có bất cứ loại hóa chất nào, thưởng thức miếng thịt gà leo cây, nghe lời chúc mộc mạc, chân tình mới thấy bữa ăn ngon lành, ấm áp biết bao.
Ông Ninh Đại Hải (ngoài cùng bên phải) cùng một số thành viên CLB dân ca Sán Chí xã Kiên Lao
Ngất ngây trong men rượu cùng lời ca, tiếng hát ngọt ngào và tình cảm nông ấm của người dân Sán Chí, chúng tôi được anh cán bộ văn hóa huyện gợi ý đến thăm xã Kiên Thành để thưởng thức một đặc sản ít nơi sánh được, đó là rượu men lá.
Xã Kiên Thành giáp ranh với xã Kiên Lao nên chả mấy chốc chúng tôi đã đến nơi. Ở nơi đây chủ yếu là người dân tộc Nùng sinh sống. Người Nùng vốn thật thà, cởi mở. Chúng tôi được kiểm chứng điều này khi tiếp xúc và trò chuyện với chị Tô Thị Lành. Chị bảo: Men rượu Kiên Thành được làm từ nhiều thứ lá và rễ cây lấy từ trên núi về vò lấy nước ủ men. Khi đã làm được men thì mới tới công đoạn chọn gạo nấu cơm rượu và ủ men rượu. Loại gạo được chọn nấu rượu phải là loại gạo bao thai hồng không được xay trắng làm mất lớp gạo nức bên ngoài mà chỉ xay cho hết vỏ chấu và nấu thành cơm. Cơm phải được nấu bằng củi chứ không nấu bằng than hay bếp gas và cơm nấu phải vừa chín tới, không được cứng cũng không được quá nát. Cơm nấu xong để nguội rồi mới trộn với men đã xay nhỏ. Sau đó hỗn hợp trên sẽ được đem vào các chum vại sành, sứ ủ khoảng ba, bốn ngày cho đến khi ngấu men thì mới đổ nước vào, ngâm nước khoảng hai, ba ngày rồi mới đem ra chưng cất thành rượu.
Kiểu nấu rượu truyền thống của người Nùng ở Kiên Thành tạo nên hương vị đặc trưng của “Nùng tửu”
Người Nùng ở Kiên Thành vẫn duy trì kiểu nấu rượu truyền thống của mình đó là kiểu nấu “ba ba”. Vật dụng để nấu ruợu cũng đơn giản, đó là một nồi bằng đồng hoặc nhôm, một chõ nấu rượu, một chiếc chảo bằng gang hoặc nhôm, một mảnh gỗ đục hình con ba ba, một ống nứa và một chiếc chum hoặc can để đựng lấy rượu chảy ra. Thông thường thì một kg gạo tương ứng với 1 lít ruợu.
Thế nhưng, khi tìm hiểu, tôi lại biết rượu Kiên Thành vốn đã ngon nổi tiếng từ thời xa xưa rồi kia! Theo nhiều người thì ngay từ thời vua Lý Nhân Tông, vị quan đem gạch từ Thăng Long về Động Giáp để xây lăng mộ cho Phò mã và Công chúa đã được biếu tặng những hũ “Nùng tửu”. Từ đó, “Nùng Tửu” thường dùng để tiến vua, đó chính là rượu của vùng đất Kiên Thành ngày nay. Có lẽ, ai đã một lần đến với Lục Ngạn và được thưởng thức đặc sản rượu Kiên Thành chắc sẽ không bao giờ quên được hương vị của rượu nơi đây. Và cũng chính vì hương vị đặc trưng của núi rừng Lục Ngạn mà mỗi người chúng tôi tới đây đều mang một vài lít rượu về làm quà cho người thân, âu cũng là một cách quảng bá cho một đặc sản của núi rừng nơi đây.
Đăng Lâm